Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2013

Cách bảo quản vắc xin đúng cách

Bảo quản vắc-xin TCMR
Bảo quản vắc-xin trong phích lạnh
Việc bảo quản vắc-xin trong TCMR được thực hiện theo “Quy định về sử dụng vắc-xin, sinh phẩm y tế trong dự phòng và điều trị” của Bộ Y tế ban hành theo Quyết định số 23/QĐ-BYT ngày 7/7/2008 và hướng dẫn của Dự án TCMR.
Các loại vắc-xin cần được bảo quản ở nhiệt độ thích hợp và phù hợp với từng tuyến trong kho cũng như khi vận chuyển. Trong quá trình bảo quản và vận chuyển, vắc-xin cần được theo dõi nhiệt độ để đảm bảo chất lượng của vắc-xin.  
Tất cả các loại vắc-xin đều không thể bị hỏng ngay khi tiếp xúc với nhiệt độ cao hoặc nhiệt độ thấp vì vắc-xin đều có tính bền vững nhất định. Mỗi loại vắc-xin đều có một khoảng nhiệt độ bảo quản thích hợp. Nếu nhiệt độ bảo quản vắc-xin nằm ngoài khoảng nhiệt độ bảo quản thì cần phải điều chỉnh lại nhiệt độ hoặc chuyển vắc-xin tới bảo quản ở nơi có nhiệt độ bảo quản thích hợp.
Thời gian bảo quản vắc-xin
Để đảm bảo luôn sẵn có vắc-xin cho các đối tượng tiêm chủng trong chương trình TCMR, đồng thời đảm bảo không bảo quản quá nhiều vắc-xin, thời gian bảo quản các vắc-xin trong TCMR tại các tuyến phải thực hiện đúng “Quy định về sử dụng vắc-xin và sinh phẩm y tế trong dự phòng và điều trị”. Tại kho vắc-xin tuyến Quốc gia, thời gian bảo quản vắc-xin là 6 - 9 tháng; kho tuyến khu vực là 3 - 6 tháng; kho tuyến tỉnh tối đa 3 tháng; kho tuyến huyện là 1 - 3 tháng; tại các cơ sở y tế nơi tổ chức tiêm chủng là 1 tháng.
Vận chuyển vắc-xin
Vắc-xin từ khi sản xuất tới khi được sử dụng cho đối tượng tiêm chủng được vận chuyển qua rất nhiều nơi. Để đảm bảo chất lượng, vắc-xin cần được bảo quản ở nhiệt độ +2oC đến + 8oC trong quá trình vận chuyển.
Nếu vận chuyển từ cơ sở sản xuất hoặc từ kho vắc-xin Quốc gia, vắc-xin được vận chuyển bằng đường hàng không trong các thùng lạnh, việc vận chuyển bằng đường hàng không quốc tế các vắc-xin nhập ngoại có dụng cụ theo dõi nhiệt độ được đặt trong các thùng lạnh. Nếu vận chuyển bằng đường bộ, vắc-xin được vận chuyển trong xe tải lạnh chuyên dụng có các thiết bị theo dõi nhiệt độ trong suốt quá trình vận chuyển.
Nếu vận chuyển vắc-xin từ kho khu vực tới kho của tỉnh, vắc-xin được vận chuyển trong xe tải lạnh chuyên dụng hoặc vắc-xin được bảo quản trong hòm lạnh và vận chuyển bằng ôtô.
Vắc-xin vận chuyển từ kho của tỉnh xuống huyện; từ kho của huyện tới cơ sở y tế hoặc từ trạm y tế xã tới điểm tiêm chủng ngoài trạm được bảo quản trong hòm lạnh hoặc phích vắc-xin. Trong các thiết bị vận chuyển vắc-xin luôn có thiết bị để theo dõi nhiệt độ của vắc-xin trong quá trình vận chuyển.
 Các thiết bị lạnh bảo quản và theo dõi nhiệt độ vắc-xin trong TCMR
Buồng lạnh âm và buồng lạnh dương có dung tích bảo quản lạnh lớn (20 - 40m3) được sử dụng bảo quản vắc-xin ở tuyến quốc gia và khu vực nơi dự trữ và cung cấp vắc-xin cho các tỉnh.
Tủ lạnh chuyên dụng TCW3000 hiện đang được sử dụng ở tất cả các tỉnh và huyện với dung tích lạnh để bảo quản vắc-xin là 126,5 lít, đủ để bảo quản vắc-xin trong tiêm chủng thường xuyên đối với hầu hết các huyện. Tại các xã vùng núi, vùng sâu, vùng xa được trang bị tủ lạnh RCW 50EG có dung tích lạnh 24 lít đảm bảo đủ dung tích lạnh cho các xã bảo quản vaccin sử dụng trong tiêm chủng thường xuyên và tiêm chủng chiến dịch trong địa bàn.
Hòm lạnh và phích vắc-xin được sử dụng để bảo quản hoặc vận chuyển vắc-xin tuyến tỉnh, huyện và xã trong tiêm chủng thường xuyên và trong chiến dịch tiêm chủng.
 Thiết bị theo dõi nhiệt độ bảo quản và vận chuyển vắc-xin
Các thiết bị theo dõi nhiệt độ được đặt trong các thiết bị lạnh để theo dõi nhiệt độ trong quá trình bảo quản và vận chuyển vắc-xin bao gồm nhiệt kế, thiết bị ghi nhiệt độ tự động, chỉ thị đông băng, chỉ thị nhiệt độ lọ vắc-xin... Tùy theo loại thiết bị theo dõi nhiệt độ mà được sử dụng thích hợp với thiết bị lạnh hoặc loại hình vận chuyển tương ứng.
Chỉ thị nhiệt độ là nhãn được dán lên lọ vắc-xin có thể thay đổi màu khi lọ vắc-xin tiếp xúc với nhiệt độ cao quá thời gian cho phép trong quá trình bảo quản và vận chuyển. Trong TCMR, vắc-xin 5 trong 1 có gắn VVM trên lọ vắc-xin. VVM là 1 hình vuông nằm bên trong hình tròn. Khi lọ vắc-xin tiếp xúc với nhiệt độ cao, hình vuông sẽ chuyển màu sẫm. Sự thay đổi màu của VVM giúp cho cán bộ y tế biết lọ vắc-xin nào có thể sử dụng tốt và lọ vắc-xin nào cần ưu tiên sử dụng trước hoặc lọ nào không nên sử dụng. 
Kiểm tra nhiệt độ bảo quảnvắc-xin
Các cán bộ TCMR được đào tạo để có thể thực hiện tốt việc đảm bảo vắc-xin luôn được bảo quản ở nhiệt độ thích hợp. Vắc-xin luôn có được chất lượng tốt nhất cho các đối tượng sử dụng.
Tất cả các thiết bị bảo quản vắc-xin TCMR hàng ngày đều được kiểm tra nhiệt độ lần đầu vào buổi sáng và lần 2 vào buổi chiều trước khi về. Việc kiểm tra nhiệt độ sáng và chiều được thực hiện liên tục cả ngày làm việc cũng như ngày nghỉ. Nếu nhiệt độ trong khoảng +2oC đến +8oC thì không cần điều chỉnh nhiệt độ.
Nếu nhiệt độ quá thấp (dưới +2oC), cần điều chỉnh nhiệt độ để tủ lạnh ấm hơn. Làm thử nghiệm lắc để kiểm tra những vắc-xin nhạy cảm với đông băng (DPT, DT, Td, uốn ván, VGB, và DPT-VGB-Hib) xem có bị hỏng bởi đông băng không nếu chỉ thị đông băng báo vắc-xin có thể bị hỏng bởi đông băng. Thực hiện “nghiệm pháp lắc” có thể cho biết vắc-xin đã tiếp xúc với nhiệt độ đông băng có thể bị hỏng do đông băng (DPT, DT, Td, UV hoặc viêm gan B) có phải hủy bỏ hay không. Sau khi đông băng, vắc-xin sẽ xuất hiện hiện tượng chất lỏng vẩn đục, tuy nhiên, chúng có xu hướng lắng cặn ở dưới đáy lọ sau khi lắc. Quá trình lắng cặn thường nhanh hơn ở những lọ đã bị đông băng so với lọ không đông băng của cùng nhà sản xuất. 
Nếu nhiệt độ quá cao (trên +8oC), cần điều chỉnh nhiệt độ cho tủ lạnh hơn. Nếu nhiệt độ không duy trì ở +2oC đến +8oC thì bảo quản vắc-xin ở nơi khác cho đến khi tủ lạnh được sửa chữa

Ngày nay y học đã phát triển và sáng chế ra các loại tủ bảo quản vắc xin mọi người có thể xem chi tiết tại:
http://meditop.com.vn/tu-bao-quan-vaccine-haier

Bạn đã bảo vệ răng miệng đúng cách chưa?

Răng miệng là một phần rất quan trọng trong con người chúng ta, để bảo vệ răng miệng đúng cách chúng ta cần phải có một số lựa chọn cho phù hợp:
1. Bàn chải đánh răng lý tưởng
Trên thị trường hiện có vô số kiểu dáng và mẫu mã bàn chải đánh răng khác nhau. Tuy nhiên, tốt nhất bạn nên sử dụng một chiếc bàn chải kiểu dáng đơn giản hoặc thon nhỏ. Một bàn chải với đầu đánh dài khoảng 2,5cm là lý tưởng cho người trưởng thành. Lông bàn chải bằng nilon cứng tốt hơn sợi tự nhiên bởi vì chúng hợp vệ sinh hơn và bảo quản tốt hơn. Bàn chải cỡ trung bình là tốt nhất bởi chúng rất ít gây tổn thương đến nướu lợi.
Bạn thường xuyên thay bàn chải như thế nào?
Nhìn chung, lông bàn chải sẽ bị tòe trong vòng 4 đến 6 tuần, Đây chính là lúc bàn chải cần phải thay.
Bạn có thường xuyên đánh răng không?
Lý tưởng nhất là chải răng ngay sau mỗi bữa ăn. Và chải răng trước khi đi ngủ cũng quan trọng nhất bởi vì trong suốt giấc ngủ, lượng nước bọt tiết ra ít và 1 số thức ăn còn lưu lại ở miệng là nguyên nhân gây hại cho răng.



2. Kem đánh răng
Kem đánh răng là chất bổ sung giúp đánh răng sạch hơn và làm sáng bóng bề mặt răng. Thành phần chính của kem đánh răng là chất làm trầy nhẹ, xà phòng, chất làm sạch, chất tạo màu và hương liệu. Bên cạnh đó, kem đánh răng còn có các loại muối amoni, chất diệp lục, flour và đinh hương được sử dụng với các lượng khác nhau. Giá trị của kem đánh răng chứa flour là ngăn cản bệnh mục xương mà hiện nay đã được xác đinh rõ ràng. Nếu trên thị trường không còn các loại kem đánh răng nữa thì muối và sodium bicarbonat của nước soda là rất rẻ và có thể thay thế kem đánh răng một cách hiệu quả. Tuy nhiên, việc lấy nước cốt chanh cọ xát lên răng là rất tệ bởi nó có thể làm hỏng răng.
3. Chỉ nha khoa
Bàn chải đánh răng không thể làm sạch hết được các kẽ răng. Và chỉ nha khoa là phương thức tốt nhất để làm sạch khu vực khó tiếp cận này. Chỉ nha khoa có bôi sáp và không bôi đều được. Quấn chỉ quanh hai ngón tay rồi nhẹ nhàng kéo lên kéo xuống giữa các răng, cẩn thận để tránh làm tổn thương lợi. Tốt nhất là bạn nên nhờ nha sĩ hướng dẫn kỹ thuật dùng chỉ nha khoa.
4. Bác sĩ nha khoa và vệ sinh răng miệng
Để có 1 hàm răng chắc khoẻ bạn nên thường xuyên đến gặp nha sĩ. Vai trò của bác sĩ nha khoa là bảo đảm cho răng miệng khỏi tình trạng bị sâu và ứ đọng. Công việc bao gồm đánh bóng, lấy cao răng, hàn những chỗ bị vỡ trên răng và tiến hành những kỹ thuật chính xác nếu cần thiết. Việc này đảm bảo trong miệng sẽ không còn chỗ hổng nào để thức ăn “trú ngụ” và gây ra những vấn đề về răng miệng. Hơn nữa, bác sĩ nha khoa còn hướng dẫn bạn nhứng cách vệ sinh miệng. 6 tháng/1 lần là khoảng thời gian thích hợp để gặp nha sĩ.

Cách điều trị viêm đường tiết niệu

Viêm đường tiết niệu là một bệnh viêm nhiễm xuất hiện khi vi khuẩn gây bệnh đi vào lỗ tiểu và nhân lên trong đường tiểu hoặc do vi khuẩn từ máu đến định cư tại nơi này.
Đường tiểu, hay đường tiết niệu, bao gồm:
- 2 thận (lọc máu, tạo ra nước tiểu để thải chất độc, cặn bã)- 2 đường dẫn niệu/ hay niệu quản (dẫn nước tiểu từ thận tới bàng quang)- Bàng quang (chứa nước tiểu)- Niệu đạo (dẫn nước tiểu từ bàng quang ra lỗ niệu đạo để thải ra ngoài)
Bình thường nước tiểu vốn vô trùng. Cấu tạo đặc biệt ở vị trí niệu quản gắn vào thành bàng quang có tác dụng như một van chống trào ngược nhằm ngăn ngừa nước tiểu đi ngược từ bàng quang lên thận. Dòng chảy của nước tiểu cũng là một lực cơ học giúp tống xuất vi khuẩn nếu chúng xâm nhập vào đây.
máy nội soi tiết niệu
Khi bị viêm đường tiết niệu, người bệnh thường có những triệu chứng rất khó chịu như: tiểu buốt, tiểu giắt (tiểu nhiều lần nhưng mỗi lần chỉ được một ít nước tiểu), nước tiểu đục, đi tiểu ra máu, đau vùng bụng dưới (viêm đường dẫn niệu), đau thắt lưng hoặc đau bên mạn sườn (trong trường hợp nhiễm trùng thận).
Vệ sinh vùng kín không tốt, sử dụng thủ thuật thông tiểu, sử dụng màng ngăn âm đạo, bao cao su có chứa chất diệt tinh trùng, hay do lây nhiễm vi khuẩn từ bạn tình khi quan hệ (đặc biệt là vi khuẩn lậu),… đều là những nguyên nhân gây nên viêm đường tiết niệu. Mầm bệnh thường xuất hiện đầu tiên ở phần thấp (niệu đạo, bàng quang) và nếu không được điều trị, nó có thể diễn biến nặng lên dẫn tới viêm đường tiết niệu trên (niệu quản, thận) làm suy giảm chức năng thận, rất nguy hiểm.
Hiện nay tỷ lệ phụ nữ mắc bệnh viêm đường tiết niệu cao hơn nam giới vì cấu tạo sinh học bộ phận sinh dục nữ khác nam. Người ta có thể nói rằng không có người phụ nữ nào không bị viêm đường tiết niệu trong cuộc đời của mình.
máy nội soi đường tiết niệu

Bộ phận sinh dục nữ có niệu đạo rất ngắn, bên cạnh đó nó còn rất gần với vùng tầng sinh môn (là hậu môn), vì thế dễ gây nên những nhiễm khuẩn ngược dòng. Còn ở nam giới thì ngược lại, tình trạng viêm đường tiết niệu thường là hậu quả của một tình trạng bệnh lý đường tiết niệu dưới, gây tắc túi tuyến trệ và giảm khả năng đào thải nước tiểu. Thường gặp như u xơ tiền liệt tuyến hoặc tắc hẹp của đường niệu đạo dưới.
Một số biến chứng nguy hiểm của viêm đường tiết niệu nếu không được chữa trị kịp thời:- Viêm thận bể thận cấp- Áp xe quanh thận- Nhiễm trùng huyết- Suy thận cấp
Do vậy, điều quan trọng nhất là tất cả các bạn có dấu hiệu, triệu chứng của viêm đường tiết niệu, phải nhanh chóng điều trị kịp thời!
Làm sao để phòng ngừa và điều trị viêm đường tiết niệu?
Những trường hợp viêm bàng quang nhẹ nhàng có thể tự lành mà không cần điều trị nào, tuy nhiên vì chúng có khả năng gây nên những biến chứng nặng nề nên tất cả các trường hợp viêm đường tiết niệu dù nặng hay nhẹ đều được khuyến cáo điều trị kỹ càng. Thuốc điều trị thường dùng là các kháng sinh, nhiều tác dụng phụ, dễ tái phát, nhờn thuốc, đặc biệt còn có thể gây ra viêm cầu thận cấp và tổn thương chức năng một số tạng phủ như tạng thận...
Theo quan niệm của Đông Y viêm đường tiết niệu chủ yếu do thấp nhiệt uất ở hạ tiêu, đường tiết niệu gây nên. Vì vậy, để chữa trị tận gốc thì cần phải thanh nhiệt, lợi thấp, lợi niệu, thông lâm làm chính.

Sử dụng tủ lạnh hiệu quả nhất


KS Nguyễn Văn Truyền, Trung tâm điện lạnh Bách Khoa tư vấn: Tủ lạnh là một trong những thiết bị tiêu tốn nhiều điện năng của các hộ gia đình. Để sử dụng tiết kiệm điện, người dân có thể sử dụng một số cách đơn giản như sau: Điều chỉnh nhiệt độ các mùa phù hợp.

tủ lạnh âm sâu

Sử dụng tủ lạnh một cách hiệu quả
Ví dụ, mùa hè sẽ cần nhiệt độ lạnh cao hơn mùa đông. Khi tủ lạnh bảo quản ít thực phẩm thì máy vẫn tiêu tốn năng lượng trên, để tiết kiệm điện hãy cho các hộp chứa đầy nước đã được làm lạnh và đặt vào tủ lạnh. Điều này sẽ lấp đầy không gian trống và giảm diện tích được bảo quản lạnh.
Khi muốn rã đông thực phẩm nên đặt chúng xuống ngăn mát qua đêm trước khi sử dụng nhằm làm mát tủ lạnh đồng thời giảm điện năng tiêu thụ. Hãy chờ thực phẩm nguội mới đưa vào tủ lạnh. Kiểm tra miếng đệm cửa để đảm bảo không bị hỏng hoặc không dính các thức ăn vào đó dẫn đến hở.
Không đặt tủ lạnh gần bếp, máy rửa chén bát, lỗ thông hơi nóng hoặc tiếp xúc ánh nắng mặt trời. Tủ lạnh cần được kê cách tường ít nhất 10cm...

Mức độ nguy hiểm khi chụp X-Quang

Theo thống kê của Cục An toàn bức xạ hạt nhân (ATBXHN), hiện nay toàn quốc có tới hơn 4.000 cơ sở có hoạt động liên quan tới bức xạ và hạt nhân, trong đó 2.930 cơ sở X-quang y tế thuộc diện quản lý và cấp phép của Sở Khoa học – Công nghệ theo phân cấp. Hơn 900 cơ sở có các hoạt động ứng dụng năng lượng nguyên tử như các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí, quặng phóng xạ… Đó là số liệu được đưa ra tại Hội nghị tổng kết 10 năm công tác quản lý Nhà nước về ATBXHN do Cục ATBXHN (Bộ Khoa học và Công nghệ) tổ chức gần đây.

Các chuyên gia nước ngoài dự Hội nghị tổng kết 10 năm công tác quản lý Nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân ngày 17/7 - Ảnh MK 

Chụp X-quang để chẩn đoán hình ảnh là hoạt động không thể thiếu trong điều trị của ngành y tế. Do đó, y tế là ngành có nhiều hoạt động liên quan tới bức xạ hạt nhân nhất. Nhiều cơ sở y tế lớn như Bệnh viện Chợ Rẫy (TP. HCM) có 13 đơn vị y học tiến hành công việc bức xạ, sử dụng tới gần 40 thiết bị X-quang chẩn đoán các loại, 2 máy gia tốc xạ trị cùng nhiều thiết bị khác. Các bệnh viện cấp tỉnh/thành phố, quận/huyện đều có một vài thiết bị bức xạ. 

Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều đại biểu dự hội nghị, đội ngũ nhân viên kỹ thuật sử dụng thiết bị chiếu chụp X-quang còn hạn chế. Đa số nhân viên chiếu chụp X-quang chỉ mới tốt nghiệp hệ trung cấp, cao đẳng, không được đào tạo chuyên sâu về X-quang trong khi thường xuyên tiếp xúc với bức xạ độc hại nhưng nhiều người chưa ý thức rõ về an toàn bức xạ. 

Theo quy định, nhân viên thực hiện các công việc liên quan đến bức xạ phải được đào tạo và cấp chứng chỉ. Hiện cả nước có 7 đơn vị tham gia đào tạo cấp giấy chứng nhận về an toàn bức xạ. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một chương trình đào tạo thống nhất về an toàn bức xạ.

Chụp X-quang chẩn đoán bệnh 
Tại các cơ sở y tế có sử dụng công nghệ liên quan tới bức xạ và hạt nhân, do điều kiện cơ sở vật chất nên đa số đều không đạt điều kiện về diện tích phòng đặt thiết bị. Theo đại diện Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM, trên địa bàn thành phố có 605 cơ sở bức xạ sử dụng 1.118 thiết bị X-quang các loại. Trong số đó, chỉ có 20% cơ sở đạt điều kiện về diện tích phòng đặt thiết bị. 

Mặc dù vậy, song so với cả nước, TP.HCM vẫn là một trong những địa phương có số nguồn bức xạ nhiều nhất, kể cả số lượng cơ sở có nguồn phóng xạ; TP.HCM cũng là nơi trung chuyển các nguồn bức xạ đi một số tỉnh khác. 

Tuy nhiên, theo báo cáo tính đến nay chưa có sự cố bức xạ nào xảy ra trên địa bàn như mất nguồn phóng xạ, chiếu xạ quá liều... gây ảnh hưởng xấu tới sức khỏe cộng đồng, an toàn và an ninh xã hội. Đối với các phòng chiếu chụp X-quang, Luật Năng lượng Nguyên tử quy định rất khắt khe. Tuy nhiên, thực tế tại nhiều cơ sở, tình trạng vi phạm vẫn diễn ra khá phổ biến. 

Theo ông Lê Lê Văn – Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thanh Hóa: “Khu vực ngoài phòng chiếu chụp X-quang ở nhiều nơi, đặc biệt là cửa ra vào và cửa sổ phòng chụp có mức độ cao gấp 10-20 lần mức độ cho phép”. Dư luận đã nhiều lần đặt câu hỏi về mức độ ảnh hưởng tới sức khỏe của bệnh nhân, người vận hành thiết bị khi tiến hành chụp X-quang. 

Theo báo cáo của Cục ATBXHN thì trung bình hàng năm, toàn quốc đã tiến hành thanh tra hơn 1.000 cơ sở bức xạ. Kết quả này cho thấy công tác thực thi pháp luật đã được tăng cường, giúp cho các chủ cơ sở nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong việc bảo đảm an toàn cho con người, môi trường cũng như ngăn ngừa sự cố bức xạ và hạt nhân xảy ra. 

Trong khuôn khổ hội nghị tổng kết 10 năm công tác quản lý Nhà nước về ATBXHN, chưa có một con số thống kê cụ thể có bao nhiêu người bị ảnh hưởng bởi bức xạ khi tiếp xúc với thiết bị y tế. Nhiều tham luận, báo cáo được đưa ra xung quanh việc quản lý an toàn bức xạ trong ngành y tế nhưng đa số là “báo cáo thành tích”. 

Đậu phộng có tác dụng với nữ giới

Các nhà nghiên cứu Mỹ nói rằng những bé gái thường xuyên ăn bơ hoặc hạt đậu phộng ít có nguy cơ mắc bệnh vú lành tính vào lúc 30 tuổi, theo hãng tin UPI.

Máy X-Quang thường quy
Bơ và hạt đậu phộng - Ảnh: Shutterstock
Tiến sĩ Graham Colditz tại Trung tâm Ung thư Siteman thuộc Bệnh viện Barnes-Jewish và Trường Y Đại học Washington ở St. Louis và các cộng sự tại Trường Y Harvard ở Boston, cho biết bệnh vú lành tính, dù không phải ung thư, làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú sau này trong đời.
Cuộc nghiên cứu cho thấy các trẻ em gái tuổi từ 9-15 thường xuyên ăn bơ hoặc hạt đậu phộng ít có nguy cơ mắc bệnh vú lành tính khi đến tuổi 30.
“Các phát hiện này cho thấy bơ đậu phộng có thể giúp giảm rủi ro ung thư vú ở phụ nữ”, tiến sĩ Colditz nói.
Các phát hiện này dựa trên cơ sở tiền sử sức khỏe của hơn 9.000 trẻ em gái trong một cuộc nghiên cứu quy mô quốc gia từ năm 1996-2001.
Sau đó, trong khoảng thời gian từ năm 2005-2010, khi các đối tượng nghiên cứu đạt độ tuổi 18-30, các nhà nghiên cứu ghi nhận liệu họ có được chẩn đoán mắc bệnh vú lành tính được xác nhận bằng kiểm tra sinh thiết vú hay không.
Nhóm nghiên cứu nhận thấy những người ăn bơ hoặc hạt đậu phộng 2 lần mỗi tuần có nguy cơ mắc bệnh vú lành tính thấp hơn 39% so với những người không ăn loại thực phẩm này.
Các phát hiện cho thấy đậu, đậu lăng, đậu nành và bắp cũng có thể giúp ngăn ngừa bệnh vú lành tính, nhưng việc tiêu thụ những loại thực phẩm này ở các bé gái trên thấp hơn nhiều và vì thế những bằng chứng thu thập được cũng kém chắc chắn hơn.
Nguồn: 
http://meditop.com.vn/may-x-quang-thuong-qui-300ma

Chăm sóc trẻ khi bị viêm phế quản


Những trẻ bị viêm thanh khí phế quản cấp thường khởi đầu bằng những triệu chứng của cảm như ho, sổ mũi, sốt nhẹ, sau đó 1 – 3 ngày bắt đầu có triệu chứng khàn giọng, khó thở, thở rít, nhất là vào lúc thời tiết trở lạnh như giữa đêm. Lứa tuổi thường mắc phải bệnh này là dưới 5 tuổi, do đường thở hẹp nên khi viêm nhiễm gây phù nề làm cho đường dẫn khí càng trở nên chít hẹp hơn, gây nên triệu chứng khó thở.
Nhận diện viêm thanh khí phế quản cấp:
Có thể nhận biết trẻ có bị viêm thanh khí phế quản cấp hay không bằng cách dựa vào các triệu chứng điển hình của bệnh như:
- Tiếng thở rít thì hít vào: bạn quan sát trẻ thở sẽ thấy mỗi lần hít vào trẻ phát ra âm thanh như tiếng rít, nghe thô ráp.
- Ho khan
- Khàn tiếng
- Khó thở, mức độ khó thở nhiều hay ít sẽ tùy thuộc vào độ nặng của bệnh.
Nhận diện các dấu hiệu nguy hiểm cần đưa trẻ đi bệnh viện ngay:
Cần đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nhất ngay khi có một trong các dấu hiệu sau đây:
- Thở nhanh, có thể xác định bằng cách đếm nhịp thở của trẻ thấy ≥ 50 nhịp/ phút
- Khó ngủ, bứt rứt và đổ mồ hôi
- Màu môi trở nên tái nhợt
- Phần mô cơ ở 2 bên cổ hay ở giữa các xương sườn lõm xuống mỗi khi trẻ cố gắng hít thở
Một điều cần lưu ý là các triệu chứng của viêm thanh khí phế quản cấp có thể trùng lắp với một số bệnh cảnh khác như dị vật đường thở, viêm nắp thanh môn, vì vậy cũng nên đưa trẻ đến bệnh viện khi thấy có các biểu hiện: sốt cao, thở mệt, khò khè nhất là khi thở ra, khó nuốt hoặc đột ngột ho sặc sụa
Chăm sóc trẻ bị viêm thanh khí phế quản cấp tại nhà:
Không phải tất cả trẻ bị viêm thanh khí phế quản cấp đều phải nhập viện điều trị. Nếu trẻ không có các dấu hiệu nguy hiểm đã nêu và tiếng thở rít chỉ xuất hiện khi khóc thì trẻ vẫn có thể điều trị ngoại trú tại nhà và tái khám theo lịch hẹn. Khi đó, cần lưu ý chăm sóc trẻ tại nhà theo hướng dẫn sau:
- Thường xuyên cho trẻ uống nước
- Nếu trẻ sốt cao hoặc đau họng, có thể cho trẻ uống thuốc hạ sốt và giảm ho
Tăng độ ẩm trong không khí có thể sẽ làm trẻ cảm thấy dễ chịu hơn. Bạn có thể đặt trẻ trong bồn tắm nước ấm hoặc dùng vòi hoa sen, và dĩ nhiên là bạn phải luôn luôn để mắt đến trẻ